Lịch sử và mô tả Tachi

So sánh nakago của một thanh katana và một thanh tachi, có thể thấy rõ vị trí của mei ở hai thanh kiếm ngược nhau (trên - Katana; dưới - Tachi).

Việc sản xuất kiếm ở Nhật Bản được chia làm các giai đoạn sau:

  • Jokoto (Cổ đại kiếm, kéo dài tới năm 900 sau công nguyên)
  • Koto (Cổ kiếm, từ khoảng năm 900 - 1596)
  • Shinto (Tân kiếm, từ 1596 - 1780)
  • Shinshinto (Tân tân kiếm, từ 1781 - 1876)
  • Gendaito (Hiện đại kiếm, từ 1876 - 1945)[1]
  • Shinsakuto (Tân tác kiếm, từ 1956 - nay)[2]

Mà trong đó người ta đã xác minh tachi được rèn cho tới thời trung cổ (trước 1596, tức giai đoạn Koto).[3] Sau thời kì này, tachi được phát triển thành katanaōdachi

Vì được cho là "bản gốc" của katana cho nên, tachi có kết cấu tương tự như katana.

Mặc dù vậy, vẫn có thể phân biệt tachi và katana dựa vào vị trí của mei (nếu có) trên nakago. Thông thường, mei thường được khắc ở mặt bên hướng ra ngoài (khi đeo) của nakago. Mặt khác, tachi được đeo với lưỡi kiếm (mắt cắt) hướng xuống dưới còn katana lại hướng lên trên nên về cơ bản, vị trí mei của hai loại kiếm này ngược nhau.[4]

Ngoài ra, khi so sánh một thanh tachi có chiều dài mặt cắt (lưỡi) khoảng 70–80 cm với một thanh katana thì dễ nhận thấy katana có chiều dài và trọng lượng nhỏ hơn tachi, nhưng tachi lại có lưỡi dài và nhỏ hơn katana.[5]

Không giống cách đeo truyền thống nổi tiếng của katana, tuy cũng được đeo bên hông nhưng tachi lại để lưỡi hướng xuống dưới (gần giống cách đeo kiếm lưỡi cong của phương hay một số nước châu Á khác).[6]

Với một thanh kiếm đeo theo "phong cách Tachi" (hướng lưỡi xuống dưới), người ta thường sử dụng tachi kochirae (bao kiếm dành cho tachi). Một chiếc tachi kochirae có hai chiếc móc (gọi là ashi) - nghĩa là "chân" trong tiếng Nhật) nó cho phép tachi có thể đeo hướng lưỡi xuống dưới nhưng vẫn gẫn như song song với mặt đất.[7] Nếu không có tachi koshirae thì vẫn có thể đeo tachi đúng cách bằng một koshiate - một vật dụng làm bằng da, cho phép bất kì thanh kiếm nào cũng có thể đeo như tachi.[8]

Để phân biệt giữ các loại tachi, người ta thường thêm tiền tố ko- (nghĩa là "ngắn") hoặc ō- (nghĩa là "dài/lớn"). Ví dụ, loại tachi ngắn có kích cỡ gần giống với wakizashi được gọi là kodachi.

Thanh tachi dài nhất (cho tới thế kỉ XV thì nó được gọi là ōdachi) có tổng chiều dài lên tới 3,7m; lưỡi dài 2,2m, nhưng người ta cho rằng, nó chỉ được dùng để làm lễ.

Vào những năm cuối thế kỉ XV - đầu thế kỉ XVI, nhiều thanh tachi được sử lại thành katana bằng cách cắt bới chuôi kiếm đi (o-suriage), và chính vì vậy mà nhiều chiếc mei quý bị mất hoặc hư hại trong giai đoạn này.[9]